Haemagglutination inhibition (HI)

Haemagglutination inhibition (HI)

Nguyên tắc:

Các axit nucleic của nhiều loại virus mã hóa các protein bề mặt kết dính các tế bào hồng cầu (RBC: Red blood cell) của nhiều loài. Ví dụ; Các hạt virus cúm có một protein vỏ gọi là hemagglutinin, hay HA, liên kết với hồng cầu, gây ra sự hình thành một mạng lưới. Tính chất này được gọi là hemagglutinination. Phản ứng của hemagglutinin virus với các tế bào hồng cầu tạo ra một mạng lưới các tế bào kết dính lắng không đều trong một ống nghiệm hoặc giếng vi mô. Các tế bào không kết dính lắng trong một nút nhỏ gọn.

Hemagglutination and Hemagglutination Inhibition Test (HI/HA)

  • Hiện tượng ngưng kết hồng cầu gần như thường được sử dụng để chẩn đoán nhiễm trùng do Orthomyxovirus, paramyxovirus và abrovirus-togavirus (bao gồm cả rubella), flavivirus và bunyavirus gây ra.
  • Sự hiện diện của virus trong các nuôi cấy tế bào bị nhiễm có thể được phát hiện bằng ngưng kết hồng cầu (HA test); danh tính của vi-rút hoặc kháng thể trong huyết thanh của bệnh nhân có thể được xác định bằng cách ức chế quá trình ngưng kết hồng cầu (HI test) đó. Mặc dù virus cúm có thể được phát hiện bằng xét nghiệm hấp phụ hồng cầu, nhưng việc phân loại phân lập được thực hiện hiệu quả nhất bằng cách ức chế ngưng kết hồng cầu (HAI). Thuốc thử và điều kiện cho xét nghiệm khác nhau tùy theo virus.
  • Cơ sở của xét nghiệm HAI là kháng thể đối với virus cụ thể đó (ví dụ virust cúm) sẽ ngăn chặn sự bám dính của virus vào RBC. Do đó, quá trình ngưng kết hồng cầu bị ức chế khi có kháng thể.

Nồng độ HAI: Độ pha loãng cao nhất của huyết thanh (Ab) ngăn ngừa quá trình ngưng kết hồng cầu được gọi là nồng độ HAI của huyết thanh.

  1. Nếu huyết thanh không chứa kháng thể phản ứng với virus cúm, thì quá trình ngưng kết hồng cầu sẽ được quan sát thấy trong tất cả các giếng.
  2. Tương tự như vậy, nếu có kháng thể đối với vi-rút, thì quá trình ngưng kết hồng cầu sẽ không được quan sát thấy cho đến khi các kháng thể được pha loãng đủ.
    Xét nghiệm HAI có thể phức tạp do sự hiện diện của các chất ức chế không đặc hiệu của quá trình ngưng kết hồng cầu của vi-rút và các agglutinin tự nhiên của hồng cầu. Do đó, huyết thanh phải được xử lý trước khi sử dụng, nếu không có thể phát sinh kết quả dương tính hoặc âm tính giả.
Hình 1. Mô tả phản ứng HA và HI test.

Vật liệu và thuốc thử:

  1. Hồng cầu từ một loài thích hợp (Gà, ngỗng, chuột lang,…) được thu thập trong dung dịch Alsever hoặc heparin
  2. Chất pha loãng (ví dụ: PBS buffer 0.5X,…) ở độ pH thích hợp
  3. Dung dịch để loại bỏ hemagglutinin không đặc hiệu khỏi huyết thanh
  4. Dịch nuôi cấy bị nhiễm hoặc kháng nguyên chuẩn (ví dụ: chế phẩm virus cúm) để xét nghiệm huyết thanh.

Qui trình:

  1. Chuẩn bị chế phẩm virus (ví dụ: virus cúm) có nồng độ HA đã biết hoặc xác định nồng độ HA của nó
  2. Chuẩn bị pha loãng gấp đôi huyết thanh bệnh nhân/xét nghiệm để xét nghiệm, ví dụ từ 1:4 đến 1:1024.
  3. Thêm một lượng virus cố định vào mỗi giếng của đĩa 96 giếng, tương đương với 4 đơn vị HA (thay đổi tùy theo virus), ngoại trừ các giếng đối chứng huyết thanh.
  4.  Sau đó, để đĩa ở nhiệt độ phòng trong 60 phút (thời gian thay đổi tùy theo yêu cầu cụ thể).
  5. Thêm (0,5%) tế bào hồng cầu (RBC) và ủ ở 4oC trong 30 phút.
  6. Đọc kết quả các giếng.


Kết quả/diễn giải

  • Độ pha loãng cao nhất của huyết thanh (Ab) ngăn chặn sự kết tụ hồng cầu được gọi là HAI titer của huyết thanh.. Một lớp tế bào nhẵn hoặc gồ ghề hoặc một nút không đều cho biết sự kết tụ. Quan sát chuyển động của nút tế bào hồng cầu khi nghiêng đĩa có thể giúp làm rõ điểm nồng độ cuối ngưng tụ.
  • Mẫu virus này có HAI titer là 1280, điều đó có nghĩa là độ pha loãng lớn nhất của kháng thể vẫn ngăn chặn sự kết tụ hồng cầu xảy ra là ở độ pha loãng 1280. Ở độ pha loãng này, các kháng thể vẫn có khả năng nhận biết và liên kết với các kháng nguyên trên virus.

Ưu điểm của xét nghiệm HAI là

  • Chúng tương đối dễ thực hiện
  • Chi phí thực hiện thấp.

Nhược điểm là xét nghiệm HAI

  • Không nhạy bằng EIA hoặc RIA,
  • Việc đọc kết quả thực tế mang tính chủ quan, thuốc thử phải mới, nếu không có thể phát sinh các kiểu kết tụ bất thường khiến việc đọc và
    giải thích xét nghiệm trở nên rất khó khăn. Do đó, xét nghiệm HAI đối với rubella đã được thay thế bằng xét nghiệm EIA và RIA nhạy hơn và đáng tin cậy hơn đối với IgG rubella trong nhiều phòng xét nghiệm chẩn đoán virus